Phát biểu tại Hội nghị- Hội thảo, Thứ trưởng Tạ Quang Đông nhấn mạnh, trong giai đoạn 2013-2020, điện ảnh Việt Nam đã có những thay đổi toàn diện, thể hiện rõ nét ở các nội dung xây dựng, hoàn thiện cơ chế chính sách; xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật điện ảnh;sản xuất phim; phát hành - phổ biến phim; đào tạo, bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực; xây dựng cơ sở kỹ thuật đồng bộ và đổi mới công nghệ; hợp tác quốc tế trong phát triển điện ảnh.
Thứ trưởng Tạ Quang Đông phát biểu tại Hội nghị- Hội thảo
Hệ thống rạp chiếu phim đạt tiêu chuẩn có sự tăng trưởng mạnh mẽ tập trung tại các thành phố với mật độ dân cư cao. Số lượng phim Việt Nam được sản xuất tăng về số lượng và chất lượng, có sự đa dạng hóa các thể loại, dòng phim. Đáng chú ý, trên thị trường phim điện ảnh chiếu rạp, số lượng phim Việt Nam được cấp phép chiếu tại các rạp có xu hướng tăng. Số lượng phim Việt Nam chiếm khoảng 20,5% tổng số phim được cấp phép phát hành tại rạp năm 2020, mang về hơn 40% tổng doanh thu phim chiếu tại rạp (doanh thu phim Việt là hơn 571 tỉ đồng trên tổng số 1.421 tỉ tổng doanh thu phim chiếu rạp).
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, điện ảnh Việt Nam còn một số hạn chế. Theo Thứ trưởng Tạ Quang Đông, những hạn chế cơ bản là: chưa xây dựng được các cơ chế, chính sách phù hợp, đồng bộ để phát triển công nghiệp điện ảnh, cụ thể: chưa có những quy định phù hợp khi hoạt động điện ảnh chuyển sang công nghệ số ở cả ba lĩnh vực sản xuất, phát hành và phổ biến phim, đặc biệt phương thức phổ biến phim trên không gian mạng ngày càng phát triển rộng rãi. Chính sách về đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động điện ảnh chưa thu hút được các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp trong và ngoài nước tham gia.
Đáng chú ý, vấn đề bản quyền trong lĩnh vực điện ảnh nói riêng và ngành công nghiệp sáng tạo nói chung ở Việt Nam những năm qua xảy ra rất nhiều vụ việc, tình trạng vi phạm Luật Sở hữu trí tuệ còn khá nhiều.
Bên cạnh đó, đầu tư cho sản xuất phim với mức kinh phí còn thấp, việc sản xuất phim hiện nay phần lớn là doanh nghiệp tư nhân. Phim Nhà nước đặt hàng ngày càng ít về số lượng và hạn chế chất lượng. Trong khi đó, việc quảng bá, truyền thông thu hút đầu tư cho sản xuất phim chưa hiệu quả.
Hoạt động sản xuất và phát hành phim tại Việt Nam vẫn chưa bắt kịp với xu hướng công nghệ của thế giới. Trong khi đó, công nghệ điện ảnh trên thế giới không ngừng phát triển mạnh mẽ càng khiến Việt Nam khó khăn hơn trong việc tiếp cận các thị trường điện ảnh quốc tế. Sự chiếm lĩnh thị trường của các doanh nghiệp phát hành, phổ biến phim có vốn đầu tư nước ngoài tạo nên sự rào cản cạnh tranh cho các doanh nghiệp trong nước.
Về hạn chế trong đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, Thứ trưởng Tạ Quang Đông nêu rõ: “Điện ảnh Việt Nam thiếu đội ngũ nhân lực có khả năng tạo nên những tác phẩm điện ảnh có chất lượng đột phá, có tiếng vang trên trường quốc tế do công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng đồng bộ cho nguồn nhân lực điện ảnh vẫn chưa đáp ứng được mục tiêu đề ra, trong khi số lượng đội ngũ sáng tác, làm phim kể cả của điện ảnh và truyền hình mà chúng ta hay gọi là thế hệ vàng, nay đã lớn tuổi, mai một”.
Hoạt động hợp tác đầu tư quốc tế trong lĩnh vực điện ảnh chưa phát huy hết tiềm năng, giá trị và thế mạnh nội sinh. Kinh phí dành cho việc quảng bá phim Việt Nam ra nước ngoài còn hạn chế, chưa được coi trọng và thiếu tính chuyên nghiệp.
Theo Cục trưởng Cục Điện ảnh Vi Kiến Thành, việc triển khai Chiến lược phát triển Điện ảnh đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 sau 7 năm đã mang lại một diện mạo nhiều thay đổi cho điện ảnh Việt. Phim Việt Nam đã đạt được tiến bộ đáng ghi nhận về nội dung và chất lượng nghệ thuật, đáp ứng yêu cầu đa dạng của thị thường điện ảnh. Số lượng phim truyện chiếu rạp của Việt Nam từ năm 2014 - 2020 đã đạt và vượt chỉ tiêu là 36 - 40 phim/năm. Nhiều bộ phim đóng vai trò quảng bá điện ảnh, thúc đẩy phát triển du lịch như Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh; Kong: Đảo đầu lâu - Kong: Skull Island...
5 năm trở lại đây, bên cạnh dòng phim tài trợ, đặt hàng của Nhà nước, hoạt động sản xuất phim trong khối doanh nghiệp tư nhân phát triển mạnh, xuất hiện nhiều phim có doanh thu cao, đem lại tín hiệu khả quan cho công nghiệp điện ảnh như: Bố già, Hai Phượng, Cua lại vợ bầu, Mắt biếc, Em chưa 18, Gái già lắm chiêu, Lật mặt 48h...
Hệ thống rạp chiếu phim, số lượng phòng chiếu, đầu tư máy chiếu phim công nghệ kỹ thuật số hiện đại trong thời gian qua phát triển mạnh mẽ... Việc đầu tư trang thiết bị chiếu phim kỹ thuật số cho đội chiếu phim lưu động ở miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn đáp ứng được khoảng 50% mục tiêu đề ra tại Chiến lược...
Một trong những mục tiêu trong thực hiện Chiến lược Phát triển Điện ảnh đến năm 2030 được Bộ VHTTDL tập trung là phát triển điện ảnh vừa là ngành nghệ thuật, vừa là ngành kinh tế. Đặc biệt, từng bước phấn đấu xây dựng ngành điện ảnh Việt Nam trở thành ngành công nghiệp văn hóa mũi nhọn, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tạo vị thế trên trường quốc tế.
PGS.TS Đỗ Lệnh Hùng Tú, Chủ tịch Hội Điện ảnh Việt Nam
Nhiều ý kiến phát biểu và tham luận gửi đến Hội nghị đã làm rõ những tác động tích cực cũng như những khó khăn trong việc thực hiện Chiến lược phát triển Điện ảnh trong thời gian qua. PGS.TS Đỗ Lệnh Hùng Tú, Chủ tịch Hội Điện ảnh Việt Nam nêu vấn đề ứng dụng công nghệ hiện đại trong sản xuất phim Việt Nam, đồng thời đề cập đến những tác động của kỷ nguyên kỹ thuật số tới hoạt động của toàn ngành điện ảnh.
“Để có môi trường chuyên nghiệp công nghệ cao, phải có sự phối hợp đồng bộ từ các phương tiện máy móc, thiết bị mới cùng trình độ của nguồn nhân lực... Để làm tốt điều này, phải cần đến định hướng chiến lược và sự đầu tư có bài bản của Nhà nước cho hoạt động công nghệ hiện đại ở tất cả các khâu sản xuất phim, phát hành và phổ biến phim, lưu trữ phim, đào tạo...”, theo ông Đỗ Lệnh Hùng Tú.
Chủ tịch Hội Điện ảnh nêu, Chiến lược phát triển Điện ảnh đã và đang đặt ra nhiều vấn đề đáng quan tâm và thích ứng. Việc tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới, làm phong phú thêm nền văn hóa dân tộc, bắt kịp sự phát triển của thời đại, đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động văn hóa, theo đó huy động mọi nguồn lực để phát triển công nghệ, coi đầu tư kiến thức và kỹ năng cho con người chính là đầu tư cho phát triển bền vững.
Nhà biên kịch Nguyễn Thị Hồng Ngát
“Thu hút nguồn vốn xã hội hóa để sản xuất phim bằng cách nào?”, nhà biên kịch Nguyễn Thị Hồng Ngát đặt câu hỏi và cho rằng: “Nói đến một nền điện ảnh dân tộc muốn khởi sắc, muốn có nhiều tác phẩm có giá trị tư tưởng, giáo dục thẩm mỹ, mang đậm bản sắc thì phải trông cậy vào lĩnh vực sản xuất phim. Sản xuất phim càng nhiều, có nhiều bộ phim hay thì mới được khu vực và thế giới biết đến...”.
Phân tích nhu cầu và thị hiếu khán giả với phim Việt thời 4.0, nhà báo Trần Việt Văn nhận định, phim nghệ thuật không thể đem lại doanh thu như phim thương mại nhưng nó lại có khả năng đưa điện ảnh Việt đi xa hơn trên thế giới, đem lại vinh quang cho điện ảnh Việt. Cũng có những phim nghệ thuật đáp ứng tiêu chí doanh thu nhưng số này rất hiếm.
Nhà báo Trần Việt Văn
“Phim ảnh không chỉ đáp ứng nhu cầu, phục vụ nhu cầu, thị hiếu khán giả mà hơn thế còn có trách nhiệm nâng cao thị hiếu người xem. Bởi thế, việc sản xuất song song hai dòng phim nghệ thuật và thương mại là trách nhiệm của các nhà làm phim tâm huyết với nền điện ảnh dân tộc”, theo nhà báo Trần Việt Văn.
Phát biểu kết luận, Thứ trưởng Tạ Quang Đông nêu, nhìn lại sau 7 năm thực hiện Chiến lược phát triển Điện ảnh, bên cạnh các chỉ số đã đạt được, vẫn còn nhiều vấn đề như cơ sở vật chất, kỹ thuật, đầu tư cho sản xuất phim, đào tạo đội ngũ làm phim… Tuy nhiên, số lượng phim, doanh thu, phát triển cụm rạp… là những mặt mạnh mà điện ảnh Việt Nam đã đạt được.
Theo Thứ trưởng, có nhiều vấn đề được nêu tại Hội nghị- Hội thảo như cơ sở vật chất, đầu tư của Nhà nước cho điện ảnh... sẽ được Cục Điện ảnh, Bộ VHTTDL tổng kết, báo cáo lãnh đạo Bộ trình Thủ tướng Chính phủ. Hy vọng trong thời gian tới, điện ảnh Việt Nam sẽ phát triển mạnh mẽ, trở thành ngành mũi nhọn trong phát triển công nghiệp văn hóa.
BẢO NGÂN, ảnh: TRẦN HUẤN báo Văn hóa